Những điều hợp kỵ trong hôn nhân theo Bát tự

Ngày xưa, hợp hôn còn gọi là hợp họ, nghĩa là kết hợp hai dòng họ để xây dựng hôn nhân. Do ngày xưa trước khi kết hôn đa phần hai bên không có cơ hội gặp mặt nên không thể tìm hiểu phẩm chất và tính cách của nhau.


Xem Bát tự xét đoán hôn nhân

Vì vậy, trong quá trình hợp hôn, thường thì phía nhà trai trước hết sẽ mời người xem Bát tự của cô gái, để xem Bát tự đó có lợi cho chồng con hay hại chồng khắc con. Nếu là lợi cho chồng con thì họ sẽ vui vẻ hoan hỉ đón mừng, còn nếu hại chồng khắc con thì họ tìm mối khác. Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, khi việc hôn nhân được quyết định chỉ đơn thuần dựa vào sự may rủi thì chúng ta cũng có thể hiểu được tâm lý của người dân lúc đó. Nhưng ở đây chúng ta hãy bỏ qua sự hoang đường của cách làm trên mà phân tích một số ví dụ sau đây, khi hai bên nam nữ cầu thân mà bên nữ có Bát tự như sau:

(năm) Đinh Sửu (tháng) Nhâm Dần (ngày) Đinh Dậu (giờ) Kỷ Dậu

Trong mệnh, Thiên Can ngày Đinh Hỏa là bản thân người nữ, có Phu Tinh là Thiên Can tháng Nhâm Thủy mà Giáp Mộc trong Địa Chi tháng Dần vừa là Ấn Thụ của Đinh Hỏa vừa là Thực Thần của Phu Tinh Nhâm Thủy. Còn xét về con cái ở trụ giờ, một là Đinh Hỏa sinh ra Tử Tinh Kỷ Thổ, hai là Phu Tinh Nhâm Thủy có Kỷ Thổ làm Quan Tinh, ba là Tử Tinh Kỷ Thổ có Giáp Mộc trong Dần làm Quan Tinh, bốn là Đinh Hỏa khắc Tài Tinh trong Địa Chi giờ Dậu. Tổng hợp các phân tích trên, thì đây là mệnh chồng con giàu sang, vì vậy phía nhà trai nhất định sẽ vui vẻ chấp thuận.

Hoặc nếu nhà gái đưa Bát tự như sau:

(năm) Giáp Thìn (tháng) Quý Dậu (ngày) Bính Tý (giờ) Tân Mão

Trụ ngày Bính Tý là bản thân, mà theo sách tướng số thì người nữ sinh vào ngày Bính Tý là phạm vào Âm Dương sát, có tính lẳng lơ, mê hoặc đàn ông. Hơn nữa, bản thân Bính Hỏa đã có Quý Thủy trong Thiên Can tháng làm Phu Tinh, nhưng Địa Chi Thìn, Tý lại hội thành Thủy, nên đây là người lén lút chồng. Lại như Can Chi của ngày giờ có Bính Tân tương hợp, Tý Mão tương hình nên mệnh này hoang dâm, sa ngã, ham mê tửu sắc. Lại thêm Bính Hỏa khắc Tài Tinh Tân Kim đang hưng vượng trong Dậu, mà Tài Tinh này lại ở vào vị trí dưới Phu Tinh, nên tiền tài có được đều do bán thân làm kỹ nữ. Mệnh nữ dâm dục đồi bại như vậy thì làm sao nhà trai có thể chấp nhận được?

Do xã hội phong kiến Trung Quốc lấy người nam làm trung tâm nên người nam được quyền so sánh lựa chọn vợ cho mình. Vì thế, có một bài ca viết rằng:

Chọn thê nên trầm tính, nói nhỏ cùng anh nghe. Phu Tinh phải mạnh khỏe, nhật Can phải dịu dàng. Nhị Đức ở Chính Tài, phú quý tự nhiên đến. Tứ trụ có Hưu Tù, tăng mệnh lại tăng thọ. Quý nhân được một ngôi, hai ba càng thêm quý. Kim Thủy nếu gặp nhau, dung nhan ắt thật đẹp. Tứ quý một ngôi Sát, thuộc gia thế sang giàu. Tài Quan là ngân khố, xung phá những được giàu. Dần Thân Tỵ Hợi đủ, dâm dục lại cô đơn. Tý Ngọ với Mão Dậu, nhất định chạy theo người. Thìn Tuất lại Sửu Mùi, đạo vợ ắt đại kỵ. Có Thìn sợ gặp Tuất, có Tuất sợ gặp Thìn. Thìn Tuất nếu gặp nhau, phần nhiều là dâm loạn. Có Sát không sợ hợp, không Sát hợp thật gay. Hợp thần nếu có nhiều, là xướng ca, kỹ nữ. Dương Nhẫn với Thượng Quan, việc hỗn loạn, phiền nhiễu. Ấn lan tràn mọi chỗ, nhất định sẽ hại con. Thiên Can liền một chữ, cô độc, họa liên miên. Địa Chi liền một chữ, hôn sự đến hai lần. Đây là mệnh người nữ, ngàn vàng chớ coi khinh.

Tuy nói như thế, nhưng ngược lại, khi nhà gái lựa chọn chồng, họ cũng tìm hiểu phân tích kỹ lưỡng Bát tự mà nhà trai đưa đến, vì đây là việc quan trọng liên quan đến hạnh phúc của cả đời người. Trong đa số trường hợp, nhà gái thường yêu cầu Bát tự của người nam có Ngũ Hành trung hòa, không thiên lệch vì cho rằng người nam như thế không những suốt đời sung túc mà còn có tính cách ôn hòa, sống thọ. Do ngày xưa, con gái khi lấy chồng thì theo chồng cả đời, nên nếu chỉ nghĩ đến giàu sang phú quý của người nam mà không nghĩ đến tính tình và tuổi thọ thì cuộc sống sau này sẽ ra sao?

Vì vậy, xuất phát từ suy nghĩ trên về việc cưới gả, sách tướng số đã khái quát lại những điều cốt lõi trong hôn nhân như sau: “Khi người nam chọn vợ, Bát tự quý ở chỗ xem Phu Tinh Tử Tinh, nếu cả chồng, con đều có lợi thì đó là điều tốt lành nhất. Khi người nữ chọn chồng, Bát tự quý ở tính khí trung hòa, không thiên lệch, sống thọ.” 

Nhưng trên đời này, Bát tự của nam nữ rất phong phú, phức tạp vô cùng, làm sao tìm được mệnh có Bát tự trung hòa hay chồng sang con quý? Do đó, nếu Bát tự của nam và nữ chênh lệch thì khi kết hôn cần có sự điều chỉnh, bổ sung lẫn nhau.

Ví dụ, Thiên Can ngày của mệnh người nam là Mộc, mà trong Bát tự lại có TỈ Kiên, Kiếp Tài Giáp Ất Mộc tương đối nhiều, còn trong Bát tự của người nữ là Mâu Kỷ Thổ, theo lý thì Mộc khắc Thổ, chồng áp chế vợ là điều bình thường nhưng cuối cùng do thế Mộc của người con trai quá nặng, khó tránh khỏi giữa đường khắc vợ, vì vậy lúc này cần phải xem đến Thực, Thương Canh Tân Kim của người nữ như thế nào. Nếu Thực, Thương nhiều, Kim áp chế được Mộc, thì cũng cản lại được, vì vậy mà có thể lấy nhau; còn nếu Thực, Thương của người nữ không đủ, thì chỉ cần Mậu Kỷ Thổ nhiều có thể sinh Kim để không làm mất đi sự cân bằng, thì cũng lấy nhau được, nhưng nếu bản thân mệnh nữ yếu kém mà không có Thực Thần Canh Kim chống đỡ thì hai bên đành phải chia tay nhau đi tìm mối khác. Ngược lại, nếu trong mệnh người nữ Thực, Thương Canh Tân Kim quá nhiều thì khi chọn chồng tốt nhất là nên chọn người nam có Tỉ Kiên, Kiếp Tài Mộc nhiều mới có thể chống đỡ được. Như vậy, dựa vào nguyên tắc này mà kết thành vợ chồng thì tuy Bát tự của hai người có sự chênh lệch mạnh yếu, nhưng nếu cả hai bổ sung cho nhau thì vẫn có thể đạt được sự cân bằng “vợ chồng hòa hợp, sinh con đẻ cái”. Nói tóm lại, nguyên tắc bổ sung lẫn nhau trong quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ là: “Mệnh nam có Mộc thịnh thì cần có Kim, được mệnh nữ có Kim cứng cỏi thì vô cùng đẹp, được mệnh Thổ sinh Kim cũng tốt, được mệnh Hỏa thì hơi xấu, gặp mệnh Thủy Mộc không nên lấy. Còn mệnh nữ thuộc Kim thì cần có Hỏa bổ sung, nếu được mệnh nam là Hỏa mạnh mẽ giúp đỡ thì vô cùng đẹp, gặp mệnh Mộc sinh Hỏa cũng tốt, gặp mệnh Thủy thì hơi xấu, gặp mệnh Kim Thổ không nên lấy.” Xem xét về sự thịnh suy thiên lệch của các Ngũ Hành khác cũng tương tự như vậy mà suy.

Ngoài ra, trong hôn nhân, còn có cách đoán định xem các hung sát như “cốt tủy phá”, “chổi sắt”, “lục hại”, “đại bại”, vv. Cách xem các loại hung sát này là dựa vào Địa Chi của năm sinh, kết hợp với Địa Chi của tháng sinh mà đoán định. Ví dụ, mệnh nữ nếu sinh vào năm Tý, tháng 5 (tháng Ngọ) sẽ bị xem là phạm vào Thần Sát “tái giá”. Khi hợp hôn nếu phía nhà trai gặp mệnh nữ này thì sẽ từ chối, rút lui ngay. Tuy nhiên, cách xem này không có căn cứ nên trong sách “Mệnh Lý Ước Ngôn”, Trần Tố Am nói rằng: “Việc hôn nhân của con người đã được định trước, việc chọn lựa số mệnh trong hôn nhân chẳng qua chỉ là tấm lòng yêu thương con cái của cha mẹ. Khi người nam chọn vợ, Bát tự quý ở chỗ xem Phu Tinh Tử Tinh; khi người nữ chọn chồng, Bát tự quý là ở đạo trung hòa, cần gì phải đưa ra các cách nói hoang đường như cốt tủy phá, chổi sắt, lục hại, đại bại, lang tịch, phi thiên, bát bại, cô hư, V.v.”