Cung Tài Bạch Vô Chính Diệu (Không có sao chính)
Khi cung Tài Bạch không có sao chính, quan trọng nhất đối với việc luận đoán tài vận là tham khảo sự xung cát của cung, đồng thời, còn phải quan sát mệnh cung và tình hình phân bố tinh diệu của tam phương tứ chính.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Tý, Ngọ (sao Tử Vi ở cung Tỵ, Hợi)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào những sao Giáp Cấp khác của cung (cung Phúc Đức), sao Thiên Đồng, sao Thái Âm tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Thiên Đồng đem đến phúc khí, độ lượng khoan hồng, sao Thái Âm làm phong phú điền trạch, hòa bình minh lý, hai sao này cùng tụ hội tại cung Phúc Đức, có thể thấy được sự hòa thuận, có lòng tốt, tinh thần thoải mái, yêu thích nuông chiều, hành sự cẩn thận không làm phật ý người khác, khả năng giao tiếp tốt, có tiểu nhân, chú ý hưởng thụ cuộc sống, yêu thích mỹ thuật văn nghệ.
Nguồn thu nhập ổn định, không so đo tính toán, biết tiết kiệm và mua đồ giữ giá, có tài vận, thường xuyên có thu nhập thêm, có tư duy tốt, dễ dàng dựa vào tài nghệ và kỹ thuật để làm ra tiền tài, Trong Đại, Tiểu hạn, khi thời cơ tới, thường nắm bắt được thời cơ, tương đối có lợi.
Cung Mệnh không có sao chính, nên dựa vào những sao Giáp Cấp khác, sao Thiên Cơ, sao Thiên Lương của cung (cung Thiên Di) tiến hành tổng hợp để luận mệnh.
Sao Thiên Cơ trí tuệ siêu việt, sao Thiên Lương từ bi vi hoài, hai sao cùng trong cung Thiên Di, thông minh lanh lợi, có lòng trượng nghĩa» hòa thuận, năng lực học tập tốt, có năng lực phân tích kế hoạch.
Có sức thu hút, có ý chí vươn lên, biết từ bỏ, có trước có sau, làm việc công tâm không thiên vị không thù vặt, danh trọng hơn lợi, chú ý thể diện, có duyên với nước ngoài. Phục vụ nhiệt tình, nhận được nhiều nhận xét tốt, cần thông qua gian khổ mới thể hiện được thực lực, đạt được thành công.
Sao Cự Môn, sao Thái Âm cùng trong cung Quan Lộc, có năng lực lãnh đạo, nhanh nhẹn hoạt bát, chịu được gian khổ, công việc gặp phải khổ nạn khó ứng phó.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Sửu, Mùi (Sao Tử Vi ở cung Tý, Ngọ)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác, sao Thiên Đồng, sao Cự Môn của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Thiên Đồng khoan hồng độ lượng, vô tư, dễ béo, hay thể thao, sao Cự Môn tính hiếu kỳ cao, không chịu thua, dễ bị mệt, hay suy nghi. Hai sao kết hợp trong cung Phúc Đức, bảo thủ ôn hòa, suy tính nhiều, bình tĩnh không mạo hiểm, có tính dựa dẫm, dễ dàng thỏa mãn, yên phận thủ thường, nói năng dễ làm phật ý người khác, có phước đường ăn uống.
Thu nhập không ổn định, kiếm tiền phải trải qua sự cạnh tranh, khả năng là làm công ăn lương hoặc là mở cửa hàng buôn bán nhỏ, tính toán không kỹ lưỡng, trẻ tuổi không có tích lũy, có thể đầu tư nhỏ, hoặc kinh doanh nhỏ, dễ thất thu, về già tài vận tốt, hiểu về trang sức.
Sao Thái Âm tọa mệnh, lãng mạn đa tình, phục vụ nhiệt tình, chịu khó chắt bóp trong công việc, có duyên với khác giới, nên làm giáo viên, giới văn nghệ sĩ, không nên theo thương nghiệp. Nhập miếu tọa cung Hợi, dạ vãn xuất sinh nhân, là “nguyệt lãng thiên môn cách”, chững chạc điềm tĩnh, giỏi việc lên kế hoạch, nhiều đam mê, đa tài đa nghệ, có khả năng thu thập ý kiến quần chúng, có quý nhân phù trợ, khả năng tiếp thu tốt, phát huy được sở trường, giỏi ngành tiền tệ, kiến trúc, vui chơi giải trí và phục vụ.
Sao Vũ Khúc, sao Thiên Tướng cùng trong cung Điền Trạch, nhà cửa đơn giản tiện lợi có cách điệu, thường phất muộn, về già có nhiều nhà đất. Sao Thái Dương, sao Thiên Lương cùng, trong cung Quan Lộc, sự nghiệp dần dần thăng tiến, nhận biết thời vận, tiếp thu kiến thức thường nhật, đảm nhiệm được trọng trách, tọa cung Mão, có thành tích. Sao Thiên Cơ trong cung Thiên Di, yêu thích du lịch, hiểu biết sâu rộng, yêu thích nghiên cứu, lấy giúp người làm thú vui, lái xe dễ mất tập trung.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Sửu, Mùi (Sao Tử Vi ở cung Thìn, Tuất)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp: Thái Dương, Thái Âm của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài. Sao Thái Dương uy nghi dũng mãnh, có trách nhiệm, nhiệt tình và có sức cuốn hút, chịu thể thao, sao Thái Âm ôn hòa chững chạc, biết đủ, lãng mạn có quy tắc, nặng tình nghĩa.
Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, tụ hội sự mềm dẻo và rắn rỏi, suy nghĩ linh hoạt, giỏi trong việc ứng phó, kết giao rộng, cá tính ôn hòa, tính tình dễ thay đổi, có tinh thần cống hiến, chú trọng cuộc sống và tình cảm, có thể động cũng có thể tĩnh.
Nghề nghiệp thường thay đổi, thường có việc làm thêm, chịu khó phấn đấu, thu nhập lên xuống thất thường, có dự trữ, nguồn tiền tài không thiếu, hậu cần tốt, có tích lũy, đầu tư nên cẩn trọng kẻo tổn thất nặng nề.
Sao Thiên Đồng nhập miếu trong cung Mệnh, trầm lắng dễ gần, an phận thủ thường, bị động bảo thủ, là người lương thiện, vui vẻ dễ thỏa mãn, tự cầu hạnh phúc, mong muốn sự ổn định trong công việc và cuộc sống, đối nhân xử thế dĩ hòa vi quý, dễ chấp nhận cuộc sống, trốn chạy thực tại, thiếu chí tiến thủ, không làm việc ác. Thích công việc đơn giản có thời gian nghỉ ngơi, không thích những việc trên trời rơi xuống, hay làm thêm việc, ngoài giờ, trong cùng một khoảng thời gian chỉ muốn chuyên chú làm một việc.
Sao Tham Lang trong cung Điền Trạch, phù hợp sống tại những nơi phồn hoa náo nhiệt, nhà ồ thoải mái lãng mạn, thời trẻ hay chuyển nhà, trung niên về nhà tích cực tích lũy tài sản.
Sao Thiên Cơ, sao Cự Môn trong cung Quan Lộc, có năng lực lãnh đạo tổ chức, sự nghiệp thích trong sự ổn định có biến hóa, có tính sáng tạo, tính cạnh tranh cao, biểu hiện tốt. Sao Thiên Lương trong cung Thiên Di, có nhân duyên, thích sông nước, vui khi tham gia văn nghệ, tôn giáo, phục vụ quần chúng, thường có kỳ duyên kỹ nghệ.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Sửu, Mùi (sao Tử Vi ở cung Tỵ, Hợi)
Sao Vũ Khúc uy nghi chững chạc, độc lập tự cường, sao Tham Lang thông minh nhưng hung hăng, học nhiều nhưng tinh thông ít. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, tư tưởng bay bổng, nhiều ảo tưởng, không dựa trên quy luật, thường có hành động khác người, làm việc theo hứng, có năng lực học tập tốt, tài trí vẹn toàn, có năng lực sáng tạo phát minh, có chí tiến thủ, thích vui vẻ, không chịu cô đơn, chú trọng cuộc sống, thích cuộc sống nhiều màu sắc, không chịu được khổ. Thu nhập cao, nhưng lên xuống thất thường, lộc đến rồi đi thường xuyên, chi tiêu nên cẩn trọng, thời trẻ trải qua nhiều sóng gió, về già sẽ phát đạt.
Sao Thiên Phủ tại Tỵ, Hợi tọa mệnh, dẫn đến chiếu cung Quan Lộc sao Thiên Tướng lạc hãm, làm giảm bớt tính ổn định của sao Thiên Phủ, hơn nữa mênh tọa tứ mã địa, bốn ba gian khô. Chững chạc tự tin, có bản lĩnh, nhường nhịn không tranh giành, cổ thể coi công việc là việc ươm mầm, tin rằng mầm lớn sẽ cồ thu hoạch, nguyện cùng lúc ươm mầm nhiều công việc, làm việc có thực lực, vững chắc không từ bỏ, thích công việc có tính cạnh tranh không quá lớn, không dễ dàng nhảy việc.
Sao Thái Dương, sao Cự Môn cùng trong cung Điền Trạch, nhà cửa sáng sủa thoải mái, thực dụng có cá tính, có tích lũy, tọa cung Dần, nhiều nhà đất. Sao Thiên Tướng trong cung Quan Lộc, thường làm việc cho các tập đoàn, đảm nhiệm chủ quản, nhận được sự trọng dụng và kính trọng, có thể theo ngành giáo dục. Sao Tử Vi, sao Thất Sát cùng trong cung Thiên Di, hoạt bát có quý nhân phù trợ, không chịu ở trong nhà, thích cuộc sống nhiều biến hóa, thích cạnh tranh, kết giao rộng.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Dần, Thân (sao Tử Vi ở cung Sửu, Mùi)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác: sao Thiên Đồng, sao Thiên Lương của cung (cung Phúc Đức) tiền hành tổng hợp để luận tài.
Sao Thiên Đồng hòa bình, thẩm mỹ và thực tế, sao Thiên Lương thẳng thắn, lãng mạn. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, chững chạc lãng tử lại thoáng, tính tình bất định, yên tĩnh ít oán trách, chú trọng tình tiết cuộc sống, biết giữ của và lợi ích, thường có tâm nhưng thiếu lực, khó đảm nhiệm trọng trách, đa số dựa vào ý kiến và sức mạnh của số đông để hoàn thành. Được các tiền bối đề bạt và chăm sóc, có tài vận, không quá coi trọng tiền tài, phải thoát ra khỏi hiện trạng mới có cơ hội phát tài.
Sao Cự Môn tại Tý, cung Ngọ vượng thế tọa mệnh, tư tưởng cẩn thận tỉ mỉ, điềm tĩnh để ý vấn đề, hiểu vấn đề và có tính sáng tạo, khách quan và có cái nhìn xa, phát huy được ưu điểm trung dung. Có tinh thần thăng tiến, nỗ lực làm việc, chờ đợi và tạo nên cơ hội, biết cách biểu đạt quan điểm và sở trường bản thân, thường nói mà không suy nghĩ, khi không để ý dễ đắc tội với người khác, nên theo nghiệp nghiên cứu hoặc nghề diễn thuyết nhiều.
Chỉ cần không hóa kỵ, tài hùng biện là tuyệt vời. Khẩu gia hợp sạn, quyền, khoa tinh sẽ là “ngọc ẩn trong đá”, thời trẻ trải qua nhiều gian khổ, trung niên về già mặt ngọc mới phát quang. Sao Vũ Khúc, sao Thất Sát cùng trong cung Điền Trạch, sống trong môi trường phức tạp, nhà ở theo chủ nghĩa chắc chắn tiện dụng, có mong muốn tích lũy, đôi khi có nguồn tài chính.
Sao Thái Dương trong cung Quan Lộc, phục vụ nhiệt tình, trong cung Thìn, sự nghiệp thành công; trong cung Tuất, bôn ba gian khó, thường gặp phải bất trắc. Sao Thiên Cơ trong cung Thiên Di, yêu thích du lịch, hiểu biết rộng rãi, thích học tập nghiên cứu, thích giúp người, nhân duyên tốt, lái xe dễ mất tập trung.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Dần, Thân (sao Tử Vi ở cung Mão, Dậu)
Sao Thiên Cơ có tính sáng tạo, sao Thái Âm lãng mạn hão huyền. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, tâm tư chi tiết tỉ mỉ, có nhiều tâm kế, quan sát tốt, đa tài, dễ thu hút sự chú ý của người khác, chú trọng phẩm chất cuộc sống.
Thu nhập ổn định, biết tích lũy, có nguồn tài chính, đôi khi đầu tư, cần dựa trên trí tuệ kiêm lao động vất vả, thông qua sự cạnh tranh mới kiếm được tiền, gia đình tiêu tốn, cần có nhiều nguồn thu, sử dụng tiền nong phải cẩn thận.
Khi cung Tài Bạch ở Dần, Thân vô chủ tinh, sao Thái Dương tọa mệnh, độc lập, mạnh mẽ, thích đương đầu, dựa vào lý lẽ để chiến đấu, cần đề phòng gần với tính dương dễ vô duyên, vất vả cô độc.
Khỉ Tài Bạch tại cung Dần, cung Thân không có sao chính, sao Thái Dương tọa mệnh, độc lập tự cường, thích cứng đầu, cãi lý, cần tránh tiếp cận với nam giới không có duyên, khổ cực cô đơn.
Sao Thái Dương tọa mệnh, tự phụ cao, tự lực tự cường, cứng đầu, cãi lý, không có duyên kết giao với nam giới, thân tình không có, khổ cực cô đơn. Tọa cung Tử lạc hãm thất huy, mắt kém, phải đi xa phát triển, thiếu kiên nhẫn, thường xuyên chỉ chăm chỉ được lúc đầu và lười chán về sau, tọa cung Ngọ tỏa sáng mạnh mẽ nhất, là “nhật lệ trung thiên cách”, hay còn gọi là “kim xán quang huy cách”, cương trực chững chạc mạnh khỏe, tích cực lạc quan, nhìn xa trông rộng, không để ý tiểu tiết, làm việc nhanh gọn, nhiệt tâm với công ích, đơn giản rộng lượng có sức thu hút, có tính sáng tạo, lanh lẹ có tài, thích hợp làm thương nghiệp mậu dịch.
Sao Tử Vi, sao Tham Lang cùng trong cung Điền Trạch, nhà cửa rộng rãi phồn hoa, nhiều nhà đất, nên bình dị tránh đi vào những khu cờ bạc trái phép. Sao Cự Môn trong cung Quan Lộc, có tinh thần nghiên cứu, chăm chỉ làm việc, làm việc không ngại khổ, không sợ bị người khác chê trách, có áp lực công việc, dễ miệng lưỡi thị phi. Sao Thiên Lương trong cung Thiên Di, thích sơn thủy, thường có kỳ duyên kỳ ngộ, thích tham gia văn nghệ, tôn giáo và phục vụ cộng đồng.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Dần, Thân (sao Tử Vi ở cung Tỵ, Hợi)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác: sao Thái Dương, sao Cự Môn của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Thái Dương rộng lượng bác ái, tích cực tiến cử, dám đảm đương, sao Cự Môn thẳng thắn, hay nghi ngờ suy nghĩ, thích màu đậm. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, thẳng thắn nhanh lẹ, nhìn xa, có sáng tạo, ăn nói lưu loát, trong đại khái có chi tiết, lo tính chu toàn, công tư đều lo, sách lược lâu dài, có khả năng phân tích và thực hiện, tích cực dễ biểu hiện, chú trọng cuộc sống cao cả và tỉ mỉ, thích sưu tầm, thích ăn uống, thích hoạt động ngoài trời. Hao tâm tổn sức mới kiếm được tiền, thu nhập không ổn định, dùng tiền phải có kế hoạch, không nên tiêu hoang phí, thích hợp với ngành nghề có tính thử thách.
Sao Thiên Đồng độ lượng khoan hồng, phúc khí tự đến, sao Thái Âm hòa bình minh lý, Điền Trạch tự phong phú. Hai sao cùng tọa mệnh, nhẹ nhàng đa tình, nhanh nhẹn hoạt bật, hiểu biết thế sự, nhân duyên tốt, có tinh thần cầu tiền, nhanh thích ứng, cơ hội du học nhiều, kinh nghiệm rộng, không phải lo chuyện cơm áo gạo tiền. Tam hợp hội chiếu sao Thiên Cơ, sao Thiên Lương là “cơ nguyệt đồng lương cách”, có khả năng vạch kế hoạch và năng lực điều phối, rất phù hợp làm trợ lý, cuộc sống ổn định.
Tọa cung Tý, tài hoa được phát huy, có thể đảm nhiệm chức vị trọng yếu, tọa cung Ngọ, muộn phiền nhiều, không có khả năng đảm đương, dễ dàng tin tưởng người khác, kinh doanh vất vả. Lạc hãm sao Thiên Tướng trong cung Điền Trạch, nhà cửa sang trọng, thu dọn nhà cửa gọn gàng sạch đẹp, có tích lũy. Sao Thiên Cơ, sao Thiên Lương cùng trong cung Quan Lộc, chịu khó, không thẳng thắn, có trách nhiệm, không níu kéo, có năng lực lãnh đạo, cổ nhiều thành tựu.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Mão, Dậu (sao Tử Vi ở cung Tý, Ngọ)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác: sao Thái Dương, sao Thiên Lương của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
chạc, thoáng, bề ngoài tỏ ra hài hòa bên trong rất nghiêm khắc, có con mắt nhìn xa trông rộng, thích làm từ thiện, có lòng từ bi và tính kiên nhẫn, thích giúp đố người khác, kết giao rộng rãi, yêu công việc quần chúng. Tiền tài ổn định, trong công việc được cấp trên nể phục và đề bạt, cuộc sống yên ấm, chi tiêu thoáng.
Cung Mão Thái Dương mặt trời mọc hướng Đông, sao Thiên Lương cũng nhập miếu, tích cực biết mình, tích ngắn thành dài, tiền tài thu nhập cao, cung Dậu Thái Dương mặt trời lặn phía Tây, thiếu tính ổn định, phát tài muộn. Sao Thiên Đồng độ lượng, đơn giản, dễ mập, sao Cự Môn tính hiếu kỳ cao, không chịu thua, suy nghĩ nhiều.
Hai sao cùng trong cung Mệnh, ôn hòa vui vẻ, có thể tự làm mình vui, làm việc không cầu kỳ, dễ chữa sai quá độ, lý tưởng cao nhưng chủ yếu trên lý thuyết, bảo thủ đa lự, thiếu tính tham lam, không đủ cố gắng, không tạo nên cơ hội mới, công việc khó có thể có đột biến.
Tự cao, nói nhiều dễ kích động, thích thể hiện, nhiều phiền não, dễ có muộn phiền về mặt tình cảm, tinh thần dễ hoang tưởng cô đơn, thời trẻ nhiều vất vả, phải bình tâm tĩnh khí, giảm bớt những ì suy nghĩ tiêu cực mới có thể ổn định. Sao Thất Sát nhập miếu cung Điền Trạch, nhà cửa đơn giản hữu dụng, dễ sống ở nơi giao thông thuận tiện, có năng lực sản xuất, thời trẻ làm vận chuyển.
Sao Thiên Cơ trong cung Quan Lộc, công việc phức tạp không ổn định, có tính sáng tạo, thường xuyên có việc làm thêm, ngày đêm đảo lặn, làm thay việc của người khác.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Mão, Dậu (sao Tử Vi ở cung Mão, Dậu)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao giáp Cấp khác: sao Tử Vi, sao Tham Lang của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Tử Vi ham học hỏi tìm tòi. Sao Tham Lang hoạt bát có nhân duyên. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, khiêm tốn giả tạo, tham lam, không thích quy tắc sẵn có, thích những điều mới lạ, hay thay đổi, xác định hướng sống kém, quan tâm đến cuộc sống, thích uống rượu vui chơi, dễ học theo thói quen xâu.
Biết cách chi tiêu, thu nhập phong phú, thời gian đầu kiếm tiền khó, qua thời gian chịu được khổ, dần dần dễ thở hơn, có thể theo thương nghiệp hoặc đi làm công chức lĩnh lương cao, chi tiêu nhiều, dễ tiêu tốn cho việc vui chơi và bạn khác giới, nên khống chế theo dự tính và cố gắng tiết kiệm.
Sao Thiên Phủ trong cung Mệnh, tự do tự tại, tùy ngộ nhi an, thích thể hiện, chững chạc tự tin. Cung Sửu, cung Mùi sao Thiên Phủ tuy nhập mieu, nhưng “phùng phủ khán tướng”, sao Thiên Tướng ở địa thế ba phương hội chiếu cung Quan Lộc, lực lượng hơi yếu mỏng. Có tấm lòng nhường nhịn chịu đựng, bảo thủ ổn định, điềm tĩnh không lùi bước, công việc có kế hoạch, yêu cầu rất cao, không dễ dàng nhảy việc.
Cung Mệnh tương lân lưỡng cung kẹp giữa sao Thái Dương, sao Thái Âm trỏ thành “nhật nguyệt giáp mệnh cách”, có tiền tài địa vị, cả đời giàu có, thường là công thương cự tử, giáp cung Mùi càng tuyệt. Sao Cự Môn trong cung Điền Trạch, nhà cửa đơn giản yên tĩnh, thích ở những khu văn giáo, nên chú ý quyền tài sản nhà đất.
Sao Thiên Tướng trong cung Quan Lộc, công việc trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, có thế thăng bằng trong động tĩnh, đa số làm việc trong doanh nghiệp, có biểu hiện tốt. Sao Liêm Trinh, sao Thất Sát cùng trong cung Thiên Di, thích đến những nơi phồn hoa náo nhiệt, vì vậy đôi khi gặp phải phiền phức không đâu.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Mão, Dậu (sao Tử Vi ở cung Thìn, Tuất)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác: sao Thiên Cơ, sao Cự Môn của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Thiên Cơ có lý tưởng, tài hoa thiên bẩm, sao Cự Môn thích nghiên cứu, tuân thủ theo nguyên tắc. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, dám nói thẳng nói thật, trí tuệ cao, có tài ăn nói, biết đối nhân xử thế, giao tiếp tốt, biết đại thể, nhiệt tâm làm việc công ích, sống tích cực, có năng lực học tập, thích phát triển nghiên cứu.
Tài phú khác biệt lớn, có thể là phú ông cũng có thể là kẻ bần hàn, rất không ổn định. Cần dựa vào trí tuệ và tài ăn nói, thông qua cạnh tranh mới có thu nhập, chi, tiêu nhiều, tiền tài thất thường, đầu tư làm ăn cần đặc biệt có kế hoạch cẩn thận, tránh lãng phí những thứ không cần thiết.
Sao Thái Dương uy nghi dũng mãnh, có sức thu hút, nhiệt tình có trách nhiệm, tích cực cầu tiến, chịu được khổ; sao Thái Âm có quy tắc, chững chạc điềm đạm, lãng mạn, theo chủ nghĩa hoàn mỹ, trọng tình cảm.
Hai sao cùng trong cung Mệnh, ngoài mềm mại trong cứng cỏi, chu toàn trái phải, âm dương hòa hợp, không quyết đoán, chịu nhẫn nhìn, ít tranh giành, đối lúc ngoan co. Thận trọng trong công việc, thường không phân biệt ngày đêm, không có khái niệm về thời gian, thương xuyên làm việc xuyên ngày đêm không ngừng nghỉ, sau đó ngủ liền mấy ngày, tự do tự tại, thiếu kiềm chế, thường làm nghề mà người khác giới làm.
Sao Tử Vi, sao Thiên Tướng cùng trong cung Điền Trạch, nhà cửa sang trọng và yên tĩnh, thường ở khu biệt thự cao cấp hoặc khu ván giáo, có nhà đất cho thuê và có thể sản xuất. Sao Thiên Lương trong cung Quan Lộc, công việc có tính lưu động, thường trôi dạt bất định, thích phục vụ cống hiến, theo nghề phúc lợi xã hội.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Thìn, Tuất (sao Tử Vi ở cung Tỵ, Hợi)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác: sao Thiên Cơ, sao Thiên Lương của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Thiên Cơ trí tuệ hơn người, suy nghĩ chu toàn tỉ mỉ, sáng tạo không tuyệt đổi, sao Thiên Lương có lòng từ bi, tự nhiên khách quan, quyết đoán hiệp nghĩa. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, chững chạc, trung hậu tự trọng, khả năng sáng tác tốt, giỏi việc vạch kế hoạch, có năng lực nghiên cứu phát minh, có nhiều kỹ năng đặc biệt, phục vụ nhiệt tình, thích giải quyết khó khăn, có con mắt nhìn xa, hành sự công minh, được mọi người nể phục.
ó đường sinh tài, thu nhập ổn định, giỏi về khoa học kỹ thuật cao, phát triển kỹ thuật, quản lý hoặc cố vấn, những ngành có tính trí tuệ cao, chủ yếu dựa vào kỹ thuật hoặc vạch kế hoạch để mưu sinh, có thể một mình giải quyết mọi việc. Sao Thái Dương tích cực cầu tiến, sao Cự Môn thẳng thắn cương trực.
Hai sao cùng trong cung Mệnh, sáng tối lẫn lộn, thẳng thắn nhưng có tâm kế, bá đạo đa nghi, thông minh tiết kiệm, ý thức tự bảo vệ cao, tốt xấu do tầm, khả năng thích ứng cao, Tuy có tác phong nhưng khí độ không đủ, thành công không khó, vất vả mệt nhọc, thường xuyên đại thành đại bại, bề ngoài bảnh bao bên trong nhiều ưu tư, các mắt quan hệ không ổn định.
Cự, Nhật đồng tọa, thành “Cự Nhật đồng cung cách”, tích cực làm việc, năng lực học tập tốt, tài năng trác việt, có tài ăn nói, nhiệt tấm công ích, có thể chịu khổ chịu khó, biết nắm bắt thời cơ, có thể gìn giữ thành công đối phó với biến cố.
Cung Dần mặt trời mọc đằng đông, tiềm lực hùng hậu, cần mẫn tiến thủ; cung Thân mặt trời lặn đằng tây, nhỏ nhắn nhưng không đẹp, thường mang đầu hổ đuôi rắn. Sao Tử Vi, sao Thất Sát cùng trong cung Điền Trạch, nhà ở cao sang kiểu Trung Quốc, thời trẻ phải di chuyển nhiều, mong muốn sản xuất lớn, nhà đất nhiều.
Cung Tài Bạch không có sao chính an tại Tỵ, Hợi (sao Tử Vi ở cung Sửu, Mùi)
Cung Tài Bạch không có sao chính, nên dựa vào các sao Giáp Cấp khác: sao Liêm Trinh, sao Tham Lang của cung (cung Phúc Đức) tiến hành tổng hợp để luận tài.
Sao Liêm Trinh độ lượng, có tính đàn hồi, biết thế nào là đủ, sao Tham Lang đa tài hoa, nhiều dục vọng, tham lam. Hai sao cùng trong cung Phúc Đức, tâm tư đa biến, thông minh mưu mẹo, ẩu đoảng pha chút đố kỵ, không dễ để lộ cảm xúc bản thân, quan sát tinh tường, nhiều đam mê, ý kiến chủ quan nặng, thường không sự kiên trì, chú trọng cuộc sống.
Tiền tài thu nhập không ổn định, biết kiếm tiền cũng biết tiêu tiền, thích thể diện, thích hưởng thụ, đôi khi có nguồn tài vận, tiền thường đến thường đi, dùng nên tiết kiệm, đồng thời phải tránh ham cờ bạc hoa rượu, nếu không cẩn thận có thể dẫn đến những công sức bỏ ra đều thành công cốc.
Sao Thiên Phủ lạc Mệnh, lạc quan khoan hồng độ lượng, thanh cao, thích giúp người, tùy gặp mà an, ung dung tự tại, án nói gần gũi, có duyên với cộng đồng, năng lực học tập tốt, có năng lực lãnh đạo vạch kế hoạch, giỏi việc quản lý tiền nong, những việc nhỏ cũng theo dõi rất chặt, phân biệt rất rõ ràng, thường đại khái qua loa, công việc tuy rất phức tạp nhưng có thể chú ý và độc lập hoàn thành.
Cung Dậu sao Thiên Phủ vượng thế, tam hợp hội chiếu cung Quan Lộc sao Thiên Tướng nhập miếu, nếu không có sát tinh phá võ, sẽ thành “phủ tướng triều viên cách”, làm việc đâu ra đó, đa tài đa nghệ, nhân duyên tốt, chững chạc linh hoạt.
Sao Thiên Tướng trong cung Quan Lộc, chững chạc có kiên nhẫn, nhẫn đến mức có thể làm công việc đơn thuần có tính nguyên tắc, nhưng có thể đảm nhiệm vị trí cán bộ, thường một mình đảm trách nhiều vai trò.
Sao Vũ Khúc, sao Thất Sát cùng trong cung Thiên Di, ra ngoài thường vất vả, hay bị rẽ ngang, có năng lực cạnh tranh, có thể khai sáng tiền đồ, giành lấy thành công.